Lõm ngực bẩm sinh là gì? Các công bố khoa học về Lõm ngực bẩm sinh

Lõm ngực bẩm sinh là một điều kiện mà ngực bị lõm hoặc dẹp do sự phát triển không bình thường của cơ và mô xung quanh khu vực ngực. Đây là một tình trạng bẩm si...

Lõm ngực bẩm sinh là một điều kiện mà ngực bị lõm hoặc dẹp do sự phát triển không bình thường của cơ và mô xung quanh khu vực ngực. Đây là một tình trạng bẩm sinh và có thể có một hoặc hai bên. Lõm ngực bẩm sinh thường xuất hiện từ khi còn nhỏ và có thể gây ra sự tự ti và ảnh hưởng đến cơ hội về mặt tâm lý và xã hội. Một số trường hợp lõm ngực bẩm sinh có thể cần phẫu thuật để điều chỉnh hình dạng ngực. Tuy nhiên, việc điều trị phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và ảnh hưởng của tình trạng này đối với chất lượng cuộc sống của cá nhân.
Lõm ngực bẩm sinh, còn được gọi là lõm ngực hoặc trạng thái cơ ngực hình chén chai, là một tình trạng được xem là bất thường về cấu trúc ngực. Nó xuất hiện khi ngực không phát triển đều và có một khu vực lõm hoặc dẹp ở trung tâm ngực, do sự không đồng đều của sự phát triển cơ và mô xung quanh.

Lõm ngực bẩm sinh có thể xảy ra ở cả nam và nữ, và thường bắt đầu từ khi còn nhỏ. Nguyên nhân chính của nguyên tắc này vẫn chưa được rõ ràng. Một số nghiên cứu cho thấy tác động của yếu tố di truyền, nhưng chưa có bằng chứng cụ thể để xác định nguyên nhân chính xác.

Mức độ lõm ngực bẩm sinh có thể khác nhau, từ nhẹ đến nghiêm trọng. Trong các trường hợp nhẹ, lõm ngực thường không gây nhiều tác động đến sức khỏe và không yêu cầu can thiệp điều trị. Tuy nhiên, ở các trường hợp nghiêm trọng, lõm ngực có thể gây ra những vấn đề về mặt tâm lý và xã hội, như tự ti hay ảnh hưởng đến tự tin.

Để điều trị lõm ngực bẩm sinh, phương pháp điều trị phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và ảnh hưởng của tình trạng này đến cuộc sống hàng ngày. Trong những trường hợp nhẹ, việc theo dõi và quản lý tình trạng có thể đủ để giảm thiểu các tác động tiêu cực. Tuy nhiên, trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, phẫu thuật có thể được xem xét để điều chỉnh hình dạng ngực. Các phẫu thuật thường liên quan đến điều chỉnh và nâng cao cấu trúc ngực bằng cách sử dụng các kỹ thuật như ghép da, phẫu thuật chỉnh hình xương sườn, và/hoặc ghép cơ cụ thể để tạo hình ngực đồng đều hơn.

Quá trình can thiệp phẫu thuật và phục hình của lõm ngực bẩm sinh cần được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên môn và đội ngũ y tế có kinh nghiệm để đảm bảo kết quả tốt và giảm thiểu các biến chứng có thể xảy ra.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "lõm ngực bẩm sinh":

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LÕM NGỰC BẨM SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP NUSS CẢI TIẾN TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
197 bệnh nhân được phẫu thuật bằng phương pháp Nuss cải tiến sử dụng đường vào nội soi và luồn thanh dẫn   từ bên trái có: Tuổi trung bình 15,51±2,99. Nam chiếm 85,3%, nữ chiếm14,7%. Chỉ  số  Haller  trung  bình  3,697±0,792,  Đặt  1 thanh chiếm 98,5%, 2 thanh chiếm 1,5%. Thời gian mổ trung bình 45,48±13,2 phút. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 5,32±2,38 ngày. Còn tồn dư khí sau mổ: 02 trường hợp. Biến chứng sau mổ: 01 trường hợp. Không có trường hợp nào chảy máu trong và sau mổ, không có tử vong. Phẫu thuật Nuss cải tiến có nội soi hỗ trợ với đường tiếp cận vào lồng ngực từ bên trái điều trị bệnh lõm ngực bẩm sinh là phương pháp hiệu quả, an toàn và ít biến chứng.
#Lõm ngực bẩm sinh #phương pháp Nuss trái qua phải #Việt Đức.
Kết quả trung hạn phẫu thuật nuss có nội soi hỗ trợ qua ngực trái điều trị lõm ngực bẩm sinh tại bệnh viện hữu nghị Việt đức
Đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ qua ngực trái điều trị lõm ngực bẩm sinh. Nghiên cứu mô tả trên 308 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh được phẫu thuật tại Trung tâm Tim mạch - Lồng ngực, Bệnh viện hữu nghị Việt Đức từ năm 2015 đến năm 2018. Kết quả cho thấy, tuổi trung bình là 15,44 ± 3,14 (từ 5 - 24 tuổi); tỉ lệ nam : nữ là 6/1; tỉ lệ lõm ngực nặng là 54,78%; lõm ngực trung bình là 24,03%; lõm ngực nhẹ là 21,10%; thời gian mổ trung bình là 48,16 ± 15,55 phút (20 - 140 phút); thời gian nằm viện trung bình sau mổ là 5,18 ± 1,65 ngày (1 - 13 ngày). Biến chứng sớm sau mổ gồm: tràn khí màng phổi 1,62%; tràn dịch màng phổi 0,65%; tụ dịch vết mổ 0,97%; nhiễm trùng vết mổ 0,32%; nhiễm trùng thanh kim loại 0,32%; xẹp phổi 0,97%; không có trường hợp nào tử vong. Biến chứng muộn gồm: nhiễm trùng vết mổ 0,65%; di lệch thanh kim loại 1,62%; dị ứng thanh kim loại 0,65%; lõm ngực tái phát 0,65%; lõm ngực tồn lưu 1,62%. Kết quả trung hạn: tỉ lệ bệnh nhân tăng cân 81,90%; cải thiện sức khỏe, thể lực 100%; tỉ lệ bệnh nhân rất hài lòng là 81,45%; hài lòng là 16,13%; không hài lòng là 2,42%. Phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ qua ngực trái an toàn, hiệu quả, ít biến chứng, bệnh nhân hài lòng sau phẫu thuật chiếm tỉ lệ cao.
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NGỰC LÕM BẨM SINH GIỮA MỔ MỞ KINH ĐIỂN VÀ PHẪU THUẬT NUSS TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Đặt vấn đề: Mổ mở kinh điển điều trị ngực lõm bẩm sinh được áp dụng từ hàng chục năm nay với kết quả tương đối hạn chế. Phẫu thuật theo phương pháp Nuss khắc phục được nhiều hạn chếđó, nhất là khi kết hợp nội soi lồng ngực. Bệnh viện Việt Đức đã áp dụng phẫu thuật Nuss kết hợp nội soi từ 2010. Việc so sánh kết quả phẫu thuật theo 2 phương pháp là cần thiết để khẳng định ưu thế của phẫu thuật Nuss điều trị ngực lõm bẩm sinh hiện nay. Phương pháp: Mô tả hồi cứu trên 30 bệnh nhân được mổ mở kinh điển (Nhóm 1, giai đoạn 2000 – 2010) và 53 bệnh nhân phẫu thuật Nuss (Nhóm 2, giai đoạn 2010 – 2011), về đặc điểm trước – trong mổ và kết quả sau mổ. Kết quả: Không có sự khác biệt về tuổi trung bình (14,5 và 16,0 tuổi) và giới tính (Nam 83,3% và 88,8%) giữa 2 nhóm. Thời gian mổ trung bình của nhóm 1 (117 ± 34 phút) dài hơn nhiều của nhóm 2 (69 ± 24 phút). Thời gian nằm viện của nhóm 1 (7,6 ± 4,3 ngày) cũng dài hơn nhóm 2 (5,2 ± 1,2 ngày). Kết quả tốt ngay sau mổ là 63,4% ở nhóm 1 và 92,5% ở nhóm 2. Kết quả trung hạn: chỉ có 13,6% hết lõm ở nhóm 1, so với nhóm 2 là 56,6%; và 18,1% bệnh nhân hài lòng ở nhóm 1 so với 94,3% ở nhóm 2. Kết luận: Phương pháp Nuss kết hợp nội soi lồng ngực là lựa chọn tốt trong điều trịbệnh ngực lõm bẩm sinh, với ưu thế toàn diện so với mổ mở kinh điển cả về thẩm mỹ, thời gian phẫu thuật, thời gian nằm viện, kết quả cải thiện tình trạng lõm ngực
#lõm ngực bẩm sinh #phương pháp Nuss #Việt Đức
BIẾN CHỨNG CỦA KỸ THUẬT PHẪU THUẬT NUSS CẢI TIẾN TRONG ĐIỀU TRỊ LÕM NGỰC BẨM SINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả biến chứng của kỹ thuật phẫu thuật Nuss cải tiến và nhận xét kết quả của kỹ thuật này. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu về phẫu thuật Nuss cải tiến điều trị lõm ngực bẩm sinh về một số biến như phân loại lõm ngực trong nhóm nghiên cứu, thời gian phẫu thuật, thời gian nằm viện, tai biến – biến chứng…. Kết quả: Kỹ thuật phẫu thuật Nuss cải tiến được triển khai ở 189 bệnh nhân với tuổi trung bình 15,51±3,042 (7 – 24 tuổi). Nam chiếm 85,2%, nữ chiếm 14,8%. Thể IA và IB chiếm 84,7%. Thời gian mổ trung bình 45,76 ± 13,178 phút (20 - 105 phút). Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 5,32 ± 2,433 ngày (3 – 35 ngày). Không có tai biến trong mổ. Biến chứng sau mổ: 02 trường hợp tồn dư khí nhiều sau mổ, 01 trường hợp tràn khí màng phổi sau mổ do vỡ kén khí và 01 trường hợp nhiễm trùng vết mổ. Không có tử vong. Kết luận: Kỹ thuật phẫu thuật Nuss cải tiến dễ triển khai, an toàn, hiệu quả và ít biến chứng trong điều trị lõm ngực bẩm sinh.
#Lõm ngực bẩm sinh #phẫu thuật Nuss cải tiến #biến chứng
39. TỶ LỆ NHIỄM TRÙNG THANH NÂNG NGỰC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN SAU PHẪU THUẬT NUSS ĐIỀU TRỊ LÕM NGỰC BẨM SINH
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD8 - Trang - 2024
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến nhiễm trùng thanh sau phẫu thuật Nuss điều trị lõm ngực bẩm sinh tại Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, phân tích hồ sơ bệnh án của 218 bệnh nhân lõm ngực đã thực hiện phẫu thuật Nuss từ tháng 1/2019 đến tháng 5/2024. Dữ liệu bao gồm đặc điểm nhân khẩu học, kỹ thuật phẫu thuật và kết quả hậu phẫu. Các phân tích thống kê, như kiểm định t-test và chi-squared, được sử dụng để xác định các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng đáng kể. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm trùng thanh là 1,4% (3/218), thấp hơn so với tỷ lệ 4% đã báo cáo ở các nghiên cứu trước đó. Nhiễm trùng liên quan đáng kể đến lõm ngực lệch tâm và sử dụng thanh kép. Tất cả bệnh nhân nhiễm trùng đều có lõm ngực lệch tâm (100%, p = 0,031), và 85,71% sử dụng thanh kép (p = 0,008). Thời gian phẫu thuật dài hơn cũng liên quan đến nguy cơ nhiễm trùng cao hơn (100 ± 17,32 phút đối với nhiễm trùng so với 69,54 ± 26,41 phút không nhiễm trùng, p = 0,042). Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ nhiễm trùng thanh sau phẫu thuật Nuss thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây, tuy nhiên, vẫn có các yếu tố nguy cơ đáng kể như cấu trúc ngực lệch tâm, sử dụng thanh kép, và thời gian phẫu thuật kéo dài. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa và tối ưu hóa kỹ thuật phẫu thuật là cần thiết để giảm thiểu các biến chứng và cải thiện kết quả điều trị.
#Lõm ngực #biến chứng #nhiễm trùng thanh
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG BỆNH NHÂN LÕM NGỰC BẨM SINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng theo nhóm tuổi của các bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh được điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang, đối tượng là bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM từ tháng 3/2008 đến tháng 12/2016. Bệnh nhân được chia làm 5 nhóm tuổi 2-5 tuổi, 6-11 tuổi, 12-15 tuổi, 16-18 tuổi và trên 18 tuổi. Các triệu chứng lâm sàng được ghi nhận tại thời điểm nhập viện đặt thanh nâng ngực. Kết quả: Có 719 bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu, tuổi trung bình là 12,4 ± 5,7 tuổi, tỉ lệ nam giới 74,1%. Triệu chứng lâm sàng thường gặp là ảnh hưởng tâm lý (66,8%), khó thở khi gắng sức (22,7%), đau ngực (37,8%), thiếu sức khi tập luyện (36,4%). Độ tuổi càng lớn, tỉ lệ các triệu chứng cơ năng càng cao. Phần lớn bệnh nhân lõm ngực nhẹ cân, chỉ số khối cơ thể (BMI) < 18,5 chiếm 74,4%. Kết luận: Bệnh nhân lõm ngực ≥ 12 tuổi bắt đầu có ảnh hưởng thể chất và tâm lý,  tỉ lệ các triệu chứng tăng dần theo tuổi. Trong đó, ảnh hưởng tâm lý là triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất ở các bệnh nhân có dị dạng lõm ngực bẩm sinh.
#Lõm ngực bẩm sinh #đặc điểm lâm sàng
LÕM NGỰC BẨM SINH: CẬP NHẬT CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA
Lõm ngực (Pectus Excavatum) là một dị dạng bẩm sinh của thành ngực trước, trong đó xương ức và một vài sụn sườn hai bên xương ức phát triển bất thường làm cho thành ngực trước lõm xuống. Chẩn đoán lõm ngực dựa vào dấu hiệu lâm sàng; các xét nghiệm cận lâm sàng, từ đó đưa ra phân loại lõm ngực. Chỉ định điều trị phẫu thuật dựa vào triệu chứng cơ năng như mệt và đau ngực khi gắng sức; dựa vào mức độ lõm ngực; dựa vào yếu tố tâm lý và yêu cầu về thẩm mỹ của người bệnh... Điều trị phẫu thuật: Trước đây, những phẫu thuật can thiệp lớn vào thành ngực được thực hiện để lại sẹo mổ dài, xấu, thời gian phẫu thuật lâu, hậu phẫu nặng nề. Ngày nay, Những phương pháp can thiệp tối thiểu như phẫu thuật Nuss đang được ứng dụng rộng rãi, là một phẫu thuật ít xâm lấn, an toàn, hiệu quả và có tính thẩm mỹ cao. Cùng với việc ứng dụng của phẫu thuật nội soi lồng ngực, sự sáng tạo của phẫu thuật viên đã làm cho phẫu thuật Nuss trở nên an toàn, thuận lợi và hiệu quả hơn trong điều trị lõm ngực bẩm sinh.
#Lõm ngực bẩm sinh; phẫu thuật Nuss
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LÕM NGỰC BẰNG PHẪU THUẬT NUSS CẢI TIẾN TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Tất cả bệnh nhân lõm ngực được phẫu thuật bằng phương pháp NUSS cải tiến tại bệnh viện Việt Đức trong thời gian 32 tháng (từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 8 năm 2017), sử dụng phương pháp hồi cứu, mô tả cắt ngang. Kết quả 197 bệnh nhân được phẫu thuật bằng phương pháp cải tiến 100% sử dụng đường vào nội soi ngực bên trái có: tuổi trung bình 14,95 ± 3,09 , nam chiếm 85,28 %, nữ chiếm 14,72%, chỉ số haller TB 3,87 ± 1,31, đặt 1 thanh chiếm 96,45%, 2 thanh chiếm 3.54%, thời gian mổ TB 44,56 ± 17,24 phút, thời gian nằm viện TB 4,89± 1,43 ngày, biến chứng sau mổ: có 12 trường hợp ( 6,1%) gồm dị ứng thanh đỡ 9 trường hợp (4,5%), 1 trường hợp rút thanh đỡ sớm do dị ứng, dị lệch thanh đỡ 1trường hợp, chảy máu trong khoang màng phổi 1 trường hợp, tràn khí màng phổi 1 trường hợp và không có tử vong. Phậu thuật NUSS cải tiến có NS hỗ trợ đường vào ngực trái điều trị bệnh lõm ngực là phương pháp hiệu quả, an toàn và ít biến chứng.
#Lõm ngực bẩm sinh #phẫu thuật NUSS cải tiến #bệnh viện Việt Đức.
Nội soi lồng ngực hỗ trợ trong phẫu thuật Nuss điều trị lõm ngực bẩm sinh
Lõm ngực (Pectus Excavatum) là một dị dạng bẩm sinh của thành ngực trước, trong đó xương ức và một vài sụn sườn hai bên xương ức phát triển bất thường làm cho thành ngực trước lõm xuống. Điều trị ngoại khoa dị tật lõm ngực bẩm sinh mới chỉ được thực hiện từ đầu thế kỷ 20. Đến nay, trên thế giới và tại Việt Nam, phẫu thuật Nuss điều trị lõm ngực bẩm sinh đã được thực hiện thường quy tại các trung tâm lớn và các bệnh viện có chuyên khoa phẫu thuật lồng ngực. Phẫu thuật Nuss kinh điển không sử dụng nội soi lồng ngực hỗ trợ[1],[2].Với sự phát triển mạnh mẽ của phẫu thuật nội soi, nhiều trung tâm đã sử dụng nội soi lồng ngực hỗ trợ trong phẫu thuật Nuss điều trị lõm ngực bẩm sinh.Cùng với sự sáng tạo của phẫu thuật viên ở mỗi trung tâm, nội soi lồng ngực có thể thực hiện ở lồng ngực bên phải, bên trái hay cả hai bên, đặc biệt với những trường hợp lõm ngực nặng hoặc tái phát, nội soi lồng ngực đã làm cho phẫu thuật Nuss trở nên thuận lợi, ít biến chứng và hiệu quả hơn trong điều trị lõm ngực bẩm sinh.  
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ DÀI HẠN SAU SỬA CHỮA DỊ TẬT LÕM NGỰC Ở TRẺ EM
Nghiên cứu hồi cứu, báo cáo loạt ca, theo dõi dọc thực hiện tại BV ĐHYD TPHCM, từ tháng 9/2016 đến tháng 9/2017. 189 bệnh nhân được điều trị sửa chữa lõm ngực bẩm sinh bằng phẫu thuật đặt thanh và rút thanh, tuổi nhỏ hơn 15 vào thời điểm phẫu thuật đặt thanh, được chọn vào nghiên cứu. Đánh giá kết cuộc an toàn thông qua tỷ lệ biến chứng sớm, biến chứng muộn sau đặt thanh và biến chứng sau rút thanh. Đánh giá kết cuộc hiệu quả thông qua các tiêu chí về lâm sàng, X-quang ngực và sự hài lòng của bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân nam là 67,2%, tuổi trung bình 8,4 ± 4,1 tuổi. 74,6% bệnh nhân có phân loại lõm ngực 1A (lõm đồng tâm khu trú) và 61,4% có mức độ lõm ngực nặng và rất nặng. Thời gian phẫu thuật đặt thanh và rút thanh trung bình lần lượt là 51,9 ± 23,4 và 39,3 ± 15,0 phút. Thời gian nằm viện trung bình sau phẫu thuật đặt thanh và rút thanh lần lượt là 5,7 ± 1,2 và 1,0 ± 0,8 ngày. Thời gian lưu thanh trung bình là 27,4 ± 7,4 tháng. Tỷ lệ biến chứng sớm sau đặt thanh là 51,9% nhưng hầu hết là biến chứng nhẹ, tự hồi phục. Tỷ lệ biến chứng muộn sau đặt thanh là 10,1%, trong đó có 6,9% cần phẫu thuật lại. Biến chứng sau rút thanh là 2,1%, tất cả đều nhẹ, tự hồi phục. Không ghi nhận trường hợp nào tử vong do phương pháp điều trị. Kết quả chung được đánh giá là “tốt” và “rất tốt” chiếm tỷ lệ 93,6%. Tỷ lệ bệnh nhân và thân nhân hài lòng là 98,4%.
#lõm ngực; phẫu thuật Nuss; hiệu quả; an toàn; dị tật bẩm sinh
Tổng số: 10   
  • 1